Thứ Năm, 18 tháng 5, 2017

GỐM SỨ VÀ LÀM THẾ NÀO ĐỂ LÀM RA CHÚNG

Ngành gốm sứ hiện nay  có quy mô lớn và bao gồm nhiều sản phẩm từ gốm sứ truyền thống như gốm sứ và gốm kỹ thuật phức tạp hơn cho các ứng dụng hóa học, cơ học hoặc nhiệt, bài viết này sẽ cung cấp cho bạn một cái nhìn khái quát về quá trình sản xuất đồ gốm truyền thống
Gốm sứ là gì?
Gốm sứ có thể được định nghĩa là một lớp chất rắn vô cơ, phi kim loại có nhiệt độ cao để sử dụng trong sản xuất. Tôi đã nói về thuật ngữ "gốm truyền thống" sẽ là trọng tâm của bài viết này, nó đề cập đến các sản phẩm gốm được sản xuất từ ​​đất sét thô và sự kết hợp của đất sét tinh luyện và các khoáng chất không bằng chất dẻo dạng bột hoặc dạng hạt như đồ gốm v.v… Để tạo ra những sản phẩm cuối cùng này, vật liệu gốm cần phải trải qua quá trình sản xuất truyền thống như sau:

1 - Trộn đất sét

Đất sét đến bằng xe tải hoặc đường sắt dưới dạng bột. Bột được làm ẩm bằng nước và trộn với một chiếc bể khổng lồ với một cái chèo được gọi là blunger. Nhiều trục chính trộn và trộn lại đất sét, để phân bố đều nước. Một mẻ điển hình hỗn hợp tại một thợ làm đồ sản xuất lớn là 100.000 lb (45.400 kg) và họ thường trộn hai lô trong một ngày. Tại thời điểm này, chất bẩn là khoảng 30% nước.Tiếp theo, các chất bẩn được lọc ép. Một thiết bị ép các bùn giữa túi hoặc các bộ lọc (như một cider press) để ép nước thừa. Kết quả là đất sét dày và khá khô và được gọi là bánh và bây giờ là khoảng 20% nước. Bánh sau đó được đưa vào máy phết, trong đó đất sét được cắt nhỏ thành miếng. Việc xắt vụn này làm cho đất sét bốc mùi vì máy hút hút không khí ra khỏi quy trình. Bánh sau đó được hình thành thành các xi lanh mà bây giờ đã sẵn sàng để đúc hoặc hình thành.
2 – Tạo hình/ Định hình sản phẩm:
Cách nhanh nhất để sản xuất một nồi bình thường, rỗng là bằng cách sử dụng một máy tung lên. Vì vậy, các đồ dùng chẳng hạn như bình hoa được làm chủ yếu bằng các máy rung lên. Các bình đất sét được làm trong máy phay sẽ được gửi đến máy kích nổ. Để làm bình, một xi lanh đất sét ướt được đổ vào máy kích nổ bằng một cánh tay hút, đặt vị trí đất sét bên trong khuôn thạch cao. Một cánh tay kim loại sau đó rơi xuống lớp đất sét ướt sục ép nó vào bức tường bên trong của khuôn thạch cao, tạo thành chiếc tàu mới. Khuôn thạch cao, với đất sét ướt Sau khi được hình thành, phần mềm xanh được tráng men và sau đó được nung, tạo ra đồ gốm.
Ảnh 1. Định hình gốm là bước quan trọng nhất để cho ra đời những mẫu mã gốm đẹp

Một khi đã được thành lập, phần mềm đã được tráng men và sau đó nung ra, tạo ra đồ gốm.
Bên trong, sau đó được nhấc lên khỏi máy và đặt trong máy sấy. Khi đất sét nung nóng và làm khô nhẹ, đất sét ướt sẽ kéo ra khỏi khuôn thạch cao và do đó dễ dàng tháo ra. Do đó, nhà máy phải có hàng ngàn khuôn đúc thạch cao để làm cho các bình hoa hoặc các phần mềm rỗng khác như một khuôn thạch cao được sử dụng để làm cho mỗi chiếc tàu mới. Nhà máy có thể làm được đến 9 miếng gốm trong một phút.
Một máy lấy các cạnh thô ra khỏi mảnh đúc. Các bộ phận được làm sạch được đặt trên một dây đai liên tục di chuyển dẫn đến các máy sấy đường hầm, làm nóng các mảnh và làm giảm hàm lượng nước xuống dưới 1% độ ẩm trước khi tráng men và nung.

3 - Trang trí hoa văn: Sản phẩm gốm được trang trí hoa văn bằng nhiều phương pháp như:
- Vẽ trên gốm (vẽ trên men và vẽ dưới men): Sản phẩm gốm sau khi tráng men rồi trang trí hoa văn được gọi là vẽ trờn men; Trang trí hoa văn trước rồi tráng men sau gọi là vẽ dưới men. Kỹ thuật này chủ yếu được ứng dụng trong phương pháp làm gốm thời Lê - Nguyễn.

- Cắt gọt và khắc vạch: Sản phẩm gốm sau khi chuốt xong được phơi nắng, khi nào đất se cứng thỡ tiến hành sửa, gọt, cạo nhẵn...theo đúng ý muốn. Các chi tiết khác như: Quai, tai hoặc trang trí các hình động vật nổi, hoa lá... cũng được thực hiện ở giai đoạn này. Khắc vạch là phương pháp trang trí hoa văn chủ yếu của gốm thời tiền sử. Người thợ gốm vẽ hoặc khắc vạch trực tiếp lên xương gốm sau đó đem nung.

- In hoa văn bằng khuôn: Một số sản phẩm gốm có hoa văn khắc chìm vào xương gốm được thực hiện bằng phương pháp in khuôn. Kỹ thuật này được áp dụng nhiều trong phương pháp làm gốm thời Lý - Trần, điển hình là các sản phẩm gốm men ngọc và gốm men hoa nâu.

Ảnh 2. Bước trang trí hoa văn hoa gốm

4 - Tráng men: Có nhiều cách tráng men khác nhau như: Phun men, dội men lên bề mặt sản phẩm gốm có kích thước lớn. Nhúng men, quét men đối với loại sản phẩm gốm có kích thước nhỏ. Nhưng thông dụng nhất vẫn là phương pháp kìm đúc: Tức là tráng men bên trong sản phẩm trước, tráng men bên ngoài sau. Dùng gáo dừa múc men rót vào bên trong sản phẩm, lắc sao cho đều, tráng men bên ngoài thì cầm sản phẩm nhúng vào thựng đựng men cho men lỏng kín bề mặt sản phẩm. Ngoài ra còn sử dụng phương pháp "quay men" hoặc "đúc men". Quay men là hình thức tráng men bờn trong và bên ngoài sản phẩm cùng một lúc, tức là cầm sản phẩm cần tráng men một tay đỡ một tay quay vào thùng men gọi là quay men. Đúc men, tức là chỉ tráng men bên trong lòng sản phẩm. Cách tráng men thiên biến vạn hoá tuỳ thuộc vào kích thước của sản phẩm, có sản phẩm sử dụng cùng một lúc nhiều cách tráng men.

5 - Nung đốt: Đây là công đoạn quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại của một mẻ gốm. Có nhiều loại lò được sử dụng nhưng phổ biến là lò cóc và lò bầu. Qua khai quật các di tích gốm cổ ở Hải Dương, chưa phát hiện thấy lò nung gốm nguyên vẹn. Tại các di tích gốm Chu Đậu (Nam Sách), Cậy (Bình Giang)... đó phát hiện được một số đáy lò, chủ yếu là lò cóc.
Lò nung có thể được làm nóng bằng khí, than, hoặc điện. Một gốm sứ sản xuất lớn sử dụng lò nung  bằng khí tự nhiên. Những chiếc ô tô lớn hoặc toa tàu (cao khoảng 5 ft hoặc 1,5 m và cao gần 5 ft hoặc 1,5 m) được đổ đầy đồ gốm chưa được gốm và gửi đến các lò nung, nung khoảng 20 vạn miếng đồ gốm trong một tuần. Những lò nung mới chạy ở nhiệt độ cao hơn lò nung cũ và đòi hỏi thời gian nung ngắn hơn khoảng 2.300 ° F (1.260 ° C) chậu trong lò trong khoảng 5 giờ - do đó cho phép các nhà máy di chuyển miếng nhanh hơn thông qua sản xuất.
Lò đốt thay đổi chất men thành lớp phủ giống như thủy tinh, giúp làm cho bình hầu như không thấm nước. Gốm sản xuất đơn màu chỉ đòi hỏi một lần đốt với lò nung và thủy tinh mới. (Nhiều lớp tráng men yêu cầu đồ ăn được nung một lần và được làm thành một thân cứng trắng, cứng hoặc nguội, sau đó được tráng men và nung lại, tuy nhiên điều này không cần thiết đối với một số loại men mới).


GIỚI THIỆU VỀ LÀNG GỐM BÁT TRÀNG

Vị trí: Nằm bên bờ tả ngạn sông Hồng, làng gốm Bát Tràng thuộc huyện Gia Lâm, cách trung tâm thủ đô Hà Nội hơn 10km về phía đông – nam.
Ðặc điểm: Làng gốm Bát Tràng đã tồn tại ở ven đô Thăng Long với tư cách một làng nghề khoảng hơn 500 năm nay.
Tên Bát Tràng được hình thành từ thời Lê, đó là sự hội nhập giữa 5 dòng họ gốm nổi tiếng của làng Bồ Bát xứ Thanh với dòng họ Nguyễn ở đất Minh Tràng. Năm dòng họ lớn gồm các họ Trần, Vương, Nguyễn, Lê, Phạm đã nhóm họp và quyết định đưa một số nghệ nhân, thợ gốm và gia đình con cháu dời làng di cư về phía kinh thành Thăng Long tìm đất lập nghiệp. Họ dừng chân tại vùng 72 gò đất trắng làng Minh Tràng.
Ảnh 1. Nghề gốm là nghề truyền thống lâu đời của người dân tại làng

Gốm Bát Tràng từ xưa đến nay đã lưu hành trên khắp mọi miền đất nước, thậm chí ra cả nước ngoài. Sản phẩm gốm Bát Tràng như lọ độc bình, song bình, bát vẽ chuồn, bát vẽ các tích cổ...đã được các lái thương Bồ Ðào Nha, Nhật Bản, Hà Lan, Pháp... mua với số lượng lớn. Nhiều nghệ nhân Nhật Bản đã bắt chước phong cách tạo hình, nét vẽ phóng khoáng, màu men đa dạng, giản dị, mộc mạc mà sâu lắng của gốm Bát Tràng.
Từ những thế kỷ trước, đồ gốm Bát Tràng đã thuộc loại cao cấp, quý hiếm nhưng phần nhiều là đồ thờ: chân đèn, lư hương, bình hoa. Về sau, do thị hiếu phát triển, cộng với nhu cầu thị trường, gốm Bát Tràng đã có nhiều đồ gia dụng, phổ biến nhất là bát, đĩa, bình, lọ. Ngày nay, cái khéo cái tài của người làng gốm Bát Tràng được phát huy cao độ trong cơ chế thị trường. Nhiều mặt hàng phong phú về chủng loại và kiểu dáng đã được sản xuất. Các loại gốm mỹ thuật, gốm sứ công nghiệp, đồ giả cổ, gốm xây dựng cao cấp đã dần được sản xuất nhiều hơn đồ gốm gia dụng. Bây giờ những mặt hàng truyền thống xưa chỉ được làm khi có khách đặt để trùng tu phục chế di tích cổ. Đứng trước những mặt hàng mỹ nghệ gốm.
Ảnh 2. Một góc tại khu làm gốm tại Bát Tràng

Trong những năm gần đây, làng đã chào đón hơn 10.000 du khách quốc tế và hơn 50.000 du khách Việt Nam mỗi năm.Tuy nhiên, nghệ nhân làng nghề truyền thống đang gặp khó khăn trong việc tìm kiếm thị trường cho sản phẩm của mình, đặc biệt là thị trường nước ngoài. Theo ông Hà Văn Lâm, đại diện làng nghề Bát Tràng, khoảng 80-85% sản phẩm địa phương đã được xuất khẩu sang thị trường nước ngoài trong giai đoạn 1990-2000 nhưng con số này đã giảm đáng kể sau năm 2005. Tình hình là do suy thoái kinh tế, đổi mới chậm trong việc cải thiện mô hình sản phẩm, cạnh tranh gay gắt trên thị trường và các hoạt động không chuyên nghiệp của các hộ gia đình và doanh nghiệp địa phương. Trong bối cảnh đó, chính quyền địa phương và người dân địa phương đã cố gắng hết sức để khôi phục làng nghề lâu năm. Các nghệ nhân địa phương nổi tiếng tạo ra các sản phẩm gốm mang dấu cá nhân của họ, hấp dẫn với số lượng lớn khách hàng. Các nhà sản xuất đồ gốm địa phương đang tập trung mở rộng thị trường nội địa trong khi tìm kiếm đối tác nước ngoài. Ngoài ra, họ cũng chú ý đến việc áp dụng các công nghệ sản xuất mới, đổi mới mô hình và nâng cao chất lượng sản phẩm của mình nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của khách hàng.

Theo thống kê của xã Bát Tràng, doanh thu hàng năm của địa phương từ ngành gốm sứ đạt gần 400 tỷ đồng (18,34 triệu USD), góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Để thúc đẩy sự phát triển của làng nghề, cần có một hướng cụ thể và sự hỗ trợ của chính quyền địa phương và các cơ quan liên quan.